Câu chuyện đằng sau bản di chúc của tình yêu thương
Hà Nội những ngày tháng 2 năm 1976, gần một năm sau ngày Thống nhất, người Việt Nam đã được ăn một cái Tết trọn vẹn của độc lập và tự do.
Trong những tháng ngày hân hoan đó, tại căn nhà số 2 phố Trần Hưng Đạo, một bản di chúc đã được viết ra từ một người phụ nữ. Đây không phải bản di chúc phân chia tài sản, quyền lợi cũng như trách nhiệm vật chất của người viết để lại cho con cháu. Mà đó là bản di chúc của TÌNH YÊU THƯƠNG.
“ Ngày 17 tháng 2 năm 1976,
Các con yêu quý,
Mẹ muốn sống cùng các con thiếu cha còn mẹ, nhưng các con thương yêu của mẹ ơi! Sống làm sao mãi mãi…
…Có ai ngờ ngày vĩnh biệt người cha vĩ đại lại đã đến bất ngờ, vì vậy cha chẳng ghi chép lời nào cho mẹ con mình.
Mẹ nghĩ dù sao cũng để lại vài ý nghĩ cho các con, các cháu làm lưu niệm…
Phần cha kính yêu để lại cho các con là một lưu niệm vô giá. Các con trai, con gái đều có bộ óc kiến thức độc lập. Bộ óc đó biết suy nghĩ lẽ phải, điều trái để xử thế với đời. Điều đó không có giá nào mua được, tạo được…
Mẹ mong tha thiết các con gái, con trai, con rể, con dâu sống với nhau hạnh phúc như cha mẹ, đồng thời các con hun đúc truyền thống nếp sinh hoạt cao thượng của ông bà cho các cháu rất thương yêu! Hết thế hệ này sang thế hệ tiếp theo bao giờ cũng giữ nếp nhà xứng đáng con cháu của ông bà…”.
Người phụ nữ thay chồng viết bản di chúc này là bà Vi Kim Ngọc, phu nhân của cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam Nguyễn Văn Huyên – người đương nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ giáo dục lâu nhất và cũng trong giai đoạn khó khăn nhất (1946-1975). Bà qua đời vào một buổi chiều thu nắng toả dịu dàng năm 1988. Tia nắng hắt qua song cửa sổ đã chứng kiến những giây phút cuối cùng của bà trên thế gian, đón bà về với người chồng thương yêu sau 13 năm xa cách…
“Phá sêu” chọn chồng
Năm 1935, lúc ấy Vi Kim Ngọc còn là thiếu nữ, con gái của Tổng đốc tỉnh Thái Bình Vi Văn Định. Ông gốc người Tày bản Chu (Lạng Sơn). Truyền thống yêu nước của gia đình bắt nguồn từ nhiều đời với nhiệm vụ trấn ải biên cương vùng biên giới Lạng Sơn. Thời cụ tổ Vi Kim Thăng đã làm quan triều Trần. Đến khi Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, cụ tổ không chịu theo, ở lại biên giới Lạng Sơn. Người nhà Minh mời ông ra giúp việc nhưng ông cũng không nhận. Khi Lê Lợi nổi lên ở Lam Sơn, ông Kim Thăng đã cùng con trai giúp Lê Lợi chống quân Minh thắng lợi. Từ đó, họ Vi cùng 5 dòng họ khác đời đời làm Thổ ty tập tước bảo vệ biên cương đất Việt.
Có truyền thống con nhà quan võ nên từ nhỏ, chẳng những cầm, kỳ, thi, hoạ, mà cả võ tàu, cưỡi ngựa Kim Ngọc cũng luyện tập không hề thua ai. Năm 13 tuổi, phụ thân Kim Ngọc đã nhận hứa hôn cho một người họ Dương Thiệu. 16 tuổi biết chuyện, Kim Ngọc đã cương quyết đòi gia đình phải trả lại sêu.
Từ Paris, Nguyễn Văn Huyên khi ấy đã đỗ tiến sĩ văn khoa và có bằng cử nhân luật tại trường Sorbonne (Pháp). Anh được một người bạn đánh tiếng về cô con gái xinh đẹp và mạnh mẽ của Tổng đốc tỉnh Thái Bình. Vi Kim Ngọc có khuôn mặt trái xoan khá bầu bĩnh, lông mày lá liễu, cặp mắt trong sáng mà cương nghị, đôi môi đầy đặn, nét căng và đỏ thắm màu bã trầu. Lúc nào cô cũng có nụ cười tươi sáng trong ánh mắt và nơi khoé miệng. Ngay ngày đầu gặp mặt, đôi trai tài gái sắc đã phải lòng nhau. Kim Ngọc viết trong nhật ký: “…Em thấy anh giống tính nết anh trai em – anh Lê”. Hai người gặp nhau nhiều buổi trước khi nhà trai xuống Thái Bình câu hôn. Đó là một tiến bộ lớn vào thời điểm bấy giờ, khi nam nữ được phép tìm hiểu trước khi thành hôn.
Điều gì khiến một cô tiểu thư cành ngọc lá vàng lại dứt bỏ lầu son gác tía theo một người đàn ông mà tương lai còn vô định và chưa biết cuộc đời sau này sẽ ra sao? Chắc chắn đó không phải là một sự lựa chọn an phận. Có lẽ trong cô tự khi nào đã nẩy sinh sức mạnh phản kháng lại chế độ phong kiến. (?????) Mà điển hình là người mẹ đã khiến cô thấu hiểu nỗi bất công của xã hội phong kiến đối với phụ nữ. Hơn nữa, ngọn gió tự do, bình đẳng, bác ái của Phương Tây từ anh trai cô học luật tại Pháp – anh Lê đã thay đổi sự ngột ngạt bám riết hàng trăm năm nay của dòng dõi con nhà võ. Sau này khi về già, trên bàn cô vẫn luôn có di ảnh hai người đó: mẹ và anh Lê.
Cách mạng - Cuộc chờ đợi lớn
Kim Ngọc bước vào dòng họ nhà chồng với không khí cái mới và cái cũ đan xen lẫn nhau. Gia đình Nguyễn Văn Huyên là gia đình Nho giáo nhưng cụ ông Nguyễn Văn Vượng lại gửi cả hai cậu con trai, Nguyễn Văn Huy và Nguyễn Văn Hưởng đi du học tại Pháp (Nguyễn Văn Huyên là con trai thứ 3???). Mẹ chồng Vi Kim Ngọc tuy là người phụ nữ nông dân, không biết chữ nhưng rất tiến thủ. Bà chăm lo cho các con học chữ Nho từ nhỏ, qua đó tự học được chữ thông qua việc dạy con và qua kinh Phật. Tính cách này ảnh hưởng tới tiểu thư Vi Kim Ngọc, khi cô phải đứng ra lo toan mọi bề của một gia đình lớn.
Quãng năm 1943 – 1944, trong những năm chạy loạn vì chiến sự rối ren, gia đình Huyên - Ngọc chuyển vào Hà Đông, còn các anh chị về quê. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, Nguyễn Văn Huyên là một trong những người đại diện trí thức Thủ đô ký bức điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị, nhường quyền kiểm soát cho nhân dân.
Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp mời Nguyễn Văn Huyên giữ chức Tổng Giám đốc Đại học vụ, khi ấy mới 37 tuổi.
Cuối tháng 5 và đầu tháng 9 năm 1946, Nguyễn Văn Huyên được Chính phủ cử tham dự Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau (Pháp) - hai cuộc hội nghị lịch sử liên quan đến vận mệnh đất nước. Tấm ảnh đã ngả vàng gẫy một góc chụp vợ và các con gửi cho Văn Huyên trước khi Hội nghị Fontainebleau: Huy - cậu con trai út lúc đó còn ẵm bế trên tay. Nữ Hạnh, Bích Hà và Nữ Hiếu mặc áo dài bông đỏ màu mận chín. Người vợ Kim Ngọc bện tóc vấn trần như khăn vấn. Nét mặt dịu hiền, trang nghiêm đượm nét buồn lo, không giống như tất cả mọi bức ảnh trước đấy và sau này.
Hai mươi năm về trước (1926), Nguyễn Văn Huyên lên đường sang Pháp học, mang nặng tâm trạng thanh niên của một nước nô lệ. Nay hẳn anh tự hào vì lên đường sang Pháp với cương vị là một tri thức yêu nước, đại diện cho một dân tộc độc lập đang đấu tranh giành chủ quyền thực sự cho đất nước.
Những ngày căng thẳng và sục sôi ở Hội nghị, anh viết những dòng thư riêng viết từ Paris gửi về Hà Nội cho người vợ trẻ Vi Kim Ngọc, anh nói lên nỗi lòng thành thực của mình:
“Ngày về không còn xa mấy nữa. Bước khó khăn còn nhiều nhưng ai nấy đều nỗ lực. Dẫu thành hay bại, phen này cũng đã trả nợ nam nhi đối với Tổ quốc, không thẹn lòng đối với gia đình. Chỉ biết bình tâm mà cố gắng (…). Còn công hay tội, vài chục năm sau lịch sử sẽ chỉ rõ (…). Ngồi không mà nói thì có gì dễ hơn! Riêng mình, mình biết sức mình, không ra mà gánh vác một phần là có tội”.
Ngày 14 tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp riêng tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, thuyết phục anh nhận chức vụ bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục khi vận mệnh đất nước như “nghìn cân treo sợi tóc”, thay ông Ca Văn Thỉnh. Như một chuyện thần thoại, một dân tộc vừa phá xiềng gông nô lệ đã lao vào việc học hành. Ngay cả vùng nông thôn xa xôi, tối đến sau những buổi cày cấy, nông dân lại ngồi học trên những ngọn đèn dầu với biết bao say mê háo hức. Khi phong trào xoá nạn mù chữ đã ít nhiều thành công, ngành Giáo dục lại phải lao ngay vào việc tổ chức soạn chương trình học và soạn tài liệu giáo khoa, nghiên cứu và sửa đổi cho thích hợp nhu cầu mới. ..
Nguyễn Văn Huyên giữ chức bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục trong 29 năm. Ông cũng là Bộ trưởng duy nhất không vào Đảng (theo dụng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh) cho đến khi qua đời vào tháng 10-1975.
Tiếp tục cuộc hành trình
“Lên non thiếp cũng lên theo
Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau”.
Đó là quyết tâm của Kim Ngọc trong chặng đường của cuộc đời lưu động qua 9 năm kháng chiến. Đó là quãng đường phiêu bạt từ Vân Đình lên Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Làng Ải, Làng Bình…Sâm sẩm tối đến ngủ nhờ nhà dân và tang tảng sáng khi chưa nhìn rõ mặt chủ nhà đã bị đánh thức để đi tiếp cuộc hành trình. Lúc ấy, Văn Huy chỉ mới 7-8 tháng, Bách (bác sĩ Tôn Thất Bách) còn nhỏ hơn (sao lại có Bách ở đây? Gia đình ô Huyên đi di tản cùng gia đình ô Tùng???)…Một gánh một gồng 3 gia đình với 6-7 đứa trẻ vượt qua những vùng hoang tàn, nơi mặt đường ngổn ngang những dấu vết của một trận càn vừa mới đây. Hàng ngàn ngôi nhà, vườn tược bị cháy rụi. Nhiều vũng máu đọng lại trên đường, người lớn phải ôm đầu trẻ nhỏ tránh cho chúng khỏi nhìn thấy cảnh tàn khốc của chiến tranh.
Những ngày “theo chàng lên non”, Kim Ngọc đã trải lòng những băn khoăn của mình: “Trải bao gian nan thử thách của cuộc đời, từ nơi nhung lụa lên xe xuống ngựa, nay chạy ngược chạy xuôi bê tha cực nhọc…Ta có đi đúng đường ta chọn không? Lúc này ta phải có nghị lực và sáng suốt để dẫn dắt các con thơ ngây!”. Lúc này hầu như chỉ có Kim Ngọc quán xuyến chăm các con, còn Văn Huyên lo việc nước đi công tác biền biệt.
Cuộc sống khó khăn, nhưng thấm đẫm tình người. Nhiều khi gạo cũng không thổi được vì sợ khói bay lên, đành nhấm vài hột cốm khô cho đỡ đói. Sau này những năm về già, bà Kim Ngọc ghi nhật ký lại: “Nhớ 9 năm Kháng chiến chống Pháp, dân tộc Việt Nam tuyệt vời!...Tình nghĩa con người với con người sao mà cao cả đẹp thế! Nhắm mắt nhớ lại một bức tranh tuyệt mỹ như hiện ra trước mắt, ngắm mãi không chán, sâu đậm tình người. Có thế mới có Điện Biên Phủ, có thế mới có Hòa bình và thống nhất đất nước!”
Trong suốt 9 năm kháng chiến, Kim Ngọc có một tinh thần quật khởi không sợ gian khổ, hiểm nguy. Nơi cô có một hoài bão tràn trề và một niềm tin vào tương lai dân tộc. Cô luôn vững vàng không lúc nào bị chao đảo dù trong gian khó nhất, dù trong nguy nan nhất, dù trong xã hội có định kiến nhưng lúc nào cô vẫn hướng cho các con đi đúng con đường đã định.
Kim Ngọc trăn trở nhiều với những điều chính cô đã trải qua thể nghiệm trong cuộc sống giữa hai chế độ. Rõ ràng cô sớm nhận thức được luồng tư tưởng mạnh mẽ và vô cùng mãnh liệt đã gây xáo trộn nơi tâm hồn, có lúc đã đảo lộn tất cả nền nếp sống quen thuộc. Đồng thời cô không bị mơ hồ trong việc nuôi dạy con, cháu theo nếp mà dân tộc Việt Nam vẫn có từ ngàn xưa và sau này Kim Ngọc đã kịp thời bổ cứu cho con cái trong lúc nuôi các cháu.
Khi các con khôn lớn
Những năm tháng trước ngày Thống nhất Giải phóng miền Nam (30/4/1975), khó khăn chồng chất khó khăn. Năm 1972, người con gái thứ ba, Nữ Hiếu xung phong “đi B”. Bà đã đồng ý cho Hiếu lao vào chiến trường khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, trong khi nhiều gia đình ở nông thôn khi ấy còn tìm cách tránh cho con họ phải “đi B” (khu vực Quảng Trị (Bình Trị Thiên ngày xưa). Dù vô cùng đau xót, nhưng bà cũng rất tự hào vì Hiếu đã làm thay điều mà bà ước mong “Tuy là gái nhưng tôi cũng muốn tham gia chống giặc ngoại xâm”.
Tháng 10 năm 1975, giáo sư Nguyễn Văn Huyên qua đời khi đang chữa trị tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Ông đã không thể chứng kiến ngày Hiến chương nhà giáo đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Ông ra đi mà không có vợ con, bạn bè bên cạnh. Sự nghiệp giáo dục bắt đầu bước vào thời kỳ xây dựng đất nước với biết bao ngổn ngang, khó khăn chồng chất. Lúc này bà Kim Ngọc đầu đã bạc trắng, tóc cắt ngắn để thành những lọn xoăn bồng bềnh. Khuôn mặt bà vẫn rất đẹp, tuy có chất chứa buồn. Nhưng ngay từ khi ông qua đời, bà đã xác định: “…Em chưa hết nợ đời. Phải làm thay anh việc anh chưa làm. Thế mà em quá ủy mị lúc nào cũng xót đau…”.
Sau khi ông mất, bà lập bàn thờ ông. Từ đó nề nếp báo cáo thành tích khi Tết đến được duy trì. Sáng mùng một con cháu chỉnh tề đến trước bàn thờ. Từ bé tới lớn lần lượt báo cáo thành tích, kết quả học tập, công tác trong năm và những dự định, những lời hứa trước ông cho năm mới. Bà đã giữ hình ảnh ông luôn luôn ở trong con cháu. Đúng như ông Nguyễn Văn Huyên đã viết trong “Văn minh Việt Nam”, “Thờ cúng Tổ tiên không giống như đạo thờ các thần linh. Thờ cúng Tổ tiên chỉ căn cứ ở lòng biết ơn và lòng kính trọng những người đã sinhh thành ra mình, nuôi nấng dạy dỗ mình. Nguyên tắc đạo đức chi phối quan hệ giữa những người đang sống trong gia tộc vẫn tiếp tục, không thay đổi, say khi từ biệt. Người ta coi cái chết đơn giản chỉ là buộc phải đi theo Tổ tiên đã khuất của đại gia đình, sau một cuộc đời trần thế tương đối dài”.
Và đúng như nguyện vọng của ông bà, hơn ba mươi năm qua không một lần sai lệch.
Xuân Anh
BOX 1
Những người con của Nguyễn Văn Huyên và Vi Kim Ngọc
Người con trai út, Nguyễn Văn Huy sau này là Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam nằm trên đường mang tên người cha thân yêu của mình, Nguyễn Văn Huyên. Những người chị trước cũng không phụ lòng mong mỏi của cha mẹ. Bích Hà, sau nhiều năm học tập vất vả xa nhà đã là người đầu tiên trong 4 anh chị em nhận bằng Phó Tiến sĩ Hóa học tại Liên Xô năm 1972. Khi về hưu, bà thành lập nên trường Nguyễn Văn Huyên và trở thành hiệu trưởng. Nữ Hiếu là phó giáo sư, thầy thuốc nhân dân, phó Viện trưởng Viện Quân y 108. Người chị cả, Nữ Hạnh là kỹ sư Thông tin hữu tuyến đường sắt.
Không chỉ 4 người con, mà dâu, rể, con cháu sau này khi không có ông bà đều thành đạt và trở thành người có ích cho xã hội.
BOX 2
Ba chàng rể nhà họ Vi
Cụ Tổng đốc Vi Văn Định có ba người rể đều là tri thức lớn – ông “Nghè tây” của Việt Nam. Họ là những người đặt nền móng đầu tiên cho ngành nghiên cứu dân tộc học, văn hoá học và nền y học của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong buổi đầu ban sơ còn nhiều khó khăn..
Người đầu tiên là tiến sĩ văn khoa - cử nhân luật khoa Nguyễn Văn Huyên. Tháng 11 năm 1946, ông nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục khi vận mệnh đất nước đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Ông giữ chức này trong gần 30 năm, cho đến khi qua đời vào tháng 10 năm 1975.
Nguyễn Văn Huyên có người con rể là Giáo sư Nguyễn Lân Dũng. Ông Dũng lấy người con gái thứ ba, Nguyễn Kim Nữ Hiếu, phó giáo sư, thầy thuốc nhân dân, phó Viện trưởng Bệnh viện Quân y 108. Nguyễn Lân Dũng là con trai cố Giáo sư Nguyễn Lân, dòng họ ông cũng nhiều người theo nghề y. Ngoài ra về phía bên nội, Nguyễn Văn Huyên còn có người chị ruột là nhà giáo Nguyễn Thị Mão. Nhà giáo Nguyễn Thị Mão là phu nhân của Khâm sai, Phó thủ tướng Phan Kế Toại.
Người thứ hai là bác sĩ Hồ Đắc Di. Bác sĩ Di đã kết hôn với người em gái là tiểu thư Vi Kim Phú, 17 tuổi. Con gái của giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di và bà Vi Kim Phú là Hồ Thể Lan về sau trở thành vụ trưởng Vụ Báo chí và là người phát ngôn của Bộ Ngoại giao nước ta. Bà Hồ Thể Lan kết hôn với người bạn đồng môn là ông Vũ Khoan.
Người cuối cùng, Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng. Tôn Thất Tùng vốn dòng dõi quý tộc (thân phụ ông là Tổng đốc tỉnh Thanh hoá). Năm 1944 bác sĩ Tùng kết hôn với cháu nội của cụ Vi Văn Định là tiểu thư Vi Nguyệt Hồ, 15 tuổi. Sau này đứa con trai đầu lòng của họ đã được Bác Hồ đặt tên theo bộ mộc cùng cha, Phó giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Bách.
dao nay ban qua hay sao ma lai khong post bai nua a?
Trả lờiXóauh tao đang ngộp đống việc,với lại chuyển sang mitchit83 cho dễ nhớ
Trả lờiXóa